Trong quá trình giảng dạy, dịch thuật và biên soạn sách, chúng tôi nhận thấy một đặc điểm rất phổ biến của các tài liệu, văn bản tiếng Hán là những tên riêng tiếng Anh hay đã phiên âm sang dạng ký tự La-tinh (như Abigail hay Abdallah) được chuyển thành dạng chữ Hán (阿比盖尔 và 阿卜杜拉). Khi dịch những tên riêng này sang tiếng Việt, nếu không có công cụ để tra cứu, người dịch thường mắc sai sót là dùng âm Hán Việt của những chữ này để dịch (A Tỉ Cái Nhĩ hay A Bốc Đỗ Lạp) thay vì trả lại đúng nguyên gốc của những tên riêng này.
Chúng tôi biên soạn quyển Từ điển tên riêng Hán-Anh để làm công cụ tra cứu cho trường hợp này. Do số lượng tên riêng quá lớn nên chúng tôi chỉ tập trung vào lãnh vực tên họ người, tên các quốc gia và tên một số địa danh thường gặp. Ngoài ra, do đơn thuần chỉ là chuyển đổi âm nên cùng một tên người, có sách hoặc tài liệu dịch thành chữ này, có sách lại dịch thành chữ khác. Trường hợp này, nếu hai chữ khác âm, chúng tôi đưa vào từ điển cả hai chữ (ví dụ Calvin phiên âm thành 加尔文 và 卡尔文), nếu hai chữ đồng âm, chúng tôi chỉ dùng chữ được dùng phổ biến hơn. Ví dụ Caesar có thể đuợc phiên âm thành 恺撒 hay 凯撒, trong sách chúng tôi đưa vào từ 恺撒. Trong quá trình dịch thuật, nếu gặp từ 凯撒, bạn đọc cần linh hoạt căn cứ vào âm đọc của từ để chọn tên đúng.